Site icon ĐOÀN KẾT – TỎA SÁNG: Chuyên trang thông tin sự kiện và bài viết văn hóa, cộng đồng

Phong trào Chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam và tại các nước Trung Quốc, Nhật Bản – Kỳ 2

Lại Như Bằng

(Phiên bản 19/04/2016)

***

Phần I – Bối cảnh sinh ra của phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam

Phần II – Phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Trung Quốc và Nhật Bản.

Phần III- Diễn biến Phong Trào chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam và một số nhân vật tiêu biểu.


Phần II – Các phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Nhật Bản và Trung Quốc

Thực ra Phong trào « Chấn hưng Phật giáo » là một phong trào có tính cách quốc tế, xảy ra trên nhiều nước vào đầu thế kỷ 20, như Tích Lan, Nhật Bản, Trung Quốc, Miến Điện…

A. Tích Lan:

Tính về thời gian xuất hiện thì ta có thể nói khởi đầu là tại Tích Lan, Ông David Hewavitarane (1864-1933) , người Tích Lan, sau này xuất gia thành Đại Đức Dharmapala, đã vận động trùng tu những Phật tích quan trọng ở Ấn Độ, Lập hội Mahabodhi Society, xuất bản tạp chí Phật học, thành lập trung tâm Phật học và tu viện Phật giáo (cuối thế kỷ 19-đầu thế kỷ 20). Năm 1908, Dharmapala viết thơ liên lạc với cư sĩ Dương Nhân Sơn (1837-1911) ở Trung Hoa để mời cộng tác. [1]

.

B. Nhật Bản:

Tại Nhật, vào những năm đầu của triều đại Minh Trị, chính quyền muốn lấy thần đạo làm quốc giáo, xem Phật giáo là ngoại lai nên có phần kỳ thị, chèn ép. Tại một số phiên trấn, tượng Phật , pháp khí, kinh điển bị vất bỏ, chùa chiền bị phá hủy, tăng lữ bị bắt hoàn tục. [2] Những biện pháp này đưa đến phản ứng quyết liệt của dân chúng địa phương tại một số vùng chịu ảnh hương mạnh của tông phái Phật Giáo Chân Tông (Các năm thứ 4, thứ 5, thứ 6 Minh Trị, tại Tam Hà Đại Tân, Tín Việt, Việt Tiền, Đại Dã, Kim Lập, Bản Tỉnh v.v… đều có bạo động). [3]

Vào cuối thế kỷ 19, phần vì chính sách ngoại giao đối với các nước Đông Nam Á, phần nhiều theo đạo Phật, phần muốn chống lại Thiên Chúa Giáo, Phật giáo được phục hồi.

Các Phật tử dựa thời cơ tạo ra một phong trào hộ pháp , với 3 phương châm :

1- Đào tạo tăng tài, nâng cao giới hạnh của tăng chúng, xóa bỏ so đo hơn thua giữa các tông phái, xây dựng cơ sở giáo dục phổ thông và chuyên môn.

2- chứng minh rằng Phật giáo có lợi cho quốc gia

3- Để thích ứng với văn hóa âu tây mới du nhập và để chống lại sự phát triển của đạo Thiên Chúa, thay đổi cách học Phật, nghiên cứu Phật Giáo một cách hợp lý.

Về chấn chỉnh tổ chức, các tông phái gửi người sang Âu Mỹ để học hỏi phương pháp nghiên cứu , học chữ Sanskrit, chữ Pali, qua Ấn độ thăm Phật Tích… Kinh điển cổ chữ Hán được in ấn lại, được dịch sang tiếng Nhật từ chữ Hán, từ chữ Sanskrit và chữ Pali. Nhờ những ấn bản này mà Cư sĩ Văn Hùng (Nhật Bản) đã giúp cư sĩ Dương Nhân Sơn (Trung Quốc) khôi phục lại được những Phật điển Trung Quốc đã bị mất trong thời loạn Thái Bình Thiên Quốc. Nhiều trường Phật Giáo được thành lập ở những cấp độ tiểu học, trung học và đại học.

Hàng loạt hội đoàn, tông phái mới ra đời. Đến năm 1915, các hội đoàn tông phái cùng liên kết thành lập « Hội liên hiệp Phật giáo ».

Mỗi tông phái có một đường lối khác nhau trong việc « đem đạo vào đời ».

Về từ thiện xã hội, tăng sĩ Tịnh Độ tông Shiio Benkyo (1876-1971) khơi động phong trào Kyosei (Hội Cộng Sinh). Dựa lên đạo lý duyên khởi, ông giải thích rằng người ta nên nhận biết sự cứu độ của Phật A-di-đà là ở trong xã hội và đời sống hàng ngày. Nhiều tăng sĩ tịnh độ, hưởng ứng phong trào, xây dựng những trung tâm bảo dưỡng hay trường học trong khuôn viên chùa hoặc tham gia vào những hoạt động xã hội khác.

Về chính trị, Giáo phái Soka Gakkai (Sáng Giá Học Hội) đã có lập trường chống chiến tranh trong Thế chiến thứ hai, và sau này thành lập đảng Komei (Đảng Công Minh) , tham gia chính quyền. Tuy nhiên, khi phát triển tại nước Pháp, Soka Gakkai bị xem là một tà phái (secte), bị tố cáo là nghi lễ và phong cách tu hành niệm chú có tính cách làm mê hoặc quần chúng.

Nói chung, đặc điểm của Phật Giáo Nhật Bản là thực tiễn, trực tiếp hành động, lời nói đi đôi với việc làm, không đưa ra những tuyên ngôn to lớn nhưng trống rỗng trong ruột.

. 

C – Trung Quốc: 

1-Phong trào chấn hưng Phật Giáo Trung Quốc:

Sau loạn Hồng Tú Toàn (1850-1864) còn gọi là loạn Thái Bình Thiên Quốc, chùa chiền bị phá hủy, kinh điển bị thiêu hủy, thất lạc , cư sĩ Dương Nhân Sơn (1837 – 1911) đứng ra vận động thành lập cơ sở khắc kinh Kim Lăng ở Nam Kinh, kêu gọi Phật tử góp sức nghiên cứu Phật học qua Hán văn, Anh văn và Pali, xây dựng Kỳ Hoàn Tinh Xá làm nơi đào tạo tăng tài. Thái Hư Đại sư từng được đào tạo nơi đây. Cộng tác với Dương Nhân Sơn có Âu Dương Tiệm (1871-1943), Mai Quang Hy (cuối thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX), Thích Nhân Sơn (1887 – 1951). Những vị sau này đều trở thành rường cột của nền chấn hưng Phật giáo Trung Quốc. [4]

Cuối đời Thanh, văn hóa Tây Phương bắt đầu xâm nhập vào Trung Quốc. Các tư tưởng cách mạng càng ngày càng phát triển, càng tích cực. Cuối thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ 20, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu ra báo , lập « cường học hội » đấu tranh đòi cải cách, đổi mới, giới thiệu sách Âu Tây đã được dịch qua chữ Hán.

Vào khoảng năm 1917, tại Trung Quốc, Tờ báo « Tân Thanh Niên » do Trần Độc Tú [5] và Ngô Nhu chủ trương truyền bá tư tường cách mạng xã hội, đả phá tư tưởng Nho Giáo, cải cách chế độ gia tộc để giải phóng con người. Phật giáo tuy có bị đả kích nhưng chỉ là gián tiếp.

Vào năm 1928, Thai Sảng Thu, giáo thụ trường Đại học Giang Tô khởi xướng ra tư tưởng « Miếu sản hưng học », chủ trương « đả phá giai cấp tăng phiệt, (…) tịch thu tài sản của tự viện bổ sung vào sự nghiệp giáo dục ».

Dưới sức ép của phong trào « Miếu sản hưng học », Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ban bố điều lệ « Tự miếu đăng ký » để điều tra tài sản của chùa miếu, sau đó lại ra sắc lệnh để xét xem chùa miếu , cái nào cần giữ lại, cái nào phải phá đi, mục tiêu đưa ra là để bài trừ mê tín dị đoan.

Phật giáo Trung Quốc trong giai đoạn này gặp nhiều khó khăn .

Các Phật tử phải tự tổ chức tìm phương cách chống đỡ. Năm 1911, Thái Hư Đại sư, cùng pháp sư Nhơn Sơn, thành lập « Hội Trung Quốc pháp giáo Hiệp Tiến » tại Nam Kinh. Năm 1912, có Thiền Sư Kính An quy tụ tăng tục hai tỉnh Giang Tô và Triết Giang thành lập hiệp hội « Trung Quốc Phật Giáo Tổng Hội » ngay tại Thượng Hải. Đến năm 1913, lại có TS Đạo Giai và Hải Thanh tổ chức « Trung Ương Phật Giáo Công Hội » tại Bắc Kinh.

Nhưng những tổ chức này không tồn tại được lâu.

Năm 1929, Thái Hư Đại sư kết hợp với Thiền Sư Viên Anh thành lập « Trung Hoa Phật Giáo Hội » do TS Viên Anh làm hội trưởng, bên cạnh có Thái Hư Đại sư , các TS Ấn Quang, Đế Nhàn, Đạo Giai, Cư sĩ Vương Nhất Đình (đại diện tổ chức « Thế giới Cư sĩ Lâm » ở Thượng Hải), cư sĩ Âu Dương Tiệm (xuất thân từ « Chi Na Nội học viện ») v.v…

Phân hội của hội cũng đặt tại những quốc gia có đông đảo Hoa kiều như Tân Gia Ba, Ngưỡng Quảng, Nam Dương, Vọng Các, Đài Loan v.v…

Do cuộc đấu tranh của Trung Quốc Phật Giáo Hội, năm 1931, chính phủ Trung Quốc mới hạ lệnh bảo vệ tài sản của tự viện và làm giảm thiểu sự bài xích Phật Giáo.

2-Thái Hư Đại sư:

Nhân vật tiêu biểu cho cuộc chấn hưng Phật Giáo tại Trung Quốc là Thái Hư Đại sư (1889-1947). Sinh quán tại Tỉnh Triết Giang, xuất gia năm 16 tuổi, ngài chịu ảnh hưởng cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn văn v.v…

Năm 1911, lúc đó Ngài được 24 tuổi. Tại Thượng Hải, giữa buổi lễ truy điệu hòa thương Ký Thiền tuẫn giáo vì vận động Phật Giáo, « vừa long trọng, vừa đau khổ, vừa tức bực, Ngài công bố ba điểm : Chỉnh trang giáo lý, Chỉnh trang giáo chế, Chỉnh trang giáo sản ». Ngài nói:

« Giáo lý Phật giáo cần có một hình thức mới để có thể thích ứng với xu hướng tư tưởng trong thời hiện đại, và không nên bảo thủ để chữa trị những căn bệnh mới.

Thứ hai, những tổ chức Phật giáo, đặc biệt là hệ thống Tăng lữ, phải nên cải cách.

Thứ ba, về tài sản của các chùa viện, nó nên là tài sản chung của tất cả Tăng sĩ, loại trừ tập quán xấu về việc tư hữu dựa trên chùa viện truyền thừa. Chúng ta cần sử dụng tài sản để hỗ trợ những vị Tăng niên trưởng đức độ, đào tạo những vị Tăng trẻ tuổi có triển vọng, và bắt đầu những hoạt động Phật sự khác nhau. » [6]

Năm 1915, Đại sư soạn bộ « Chỉnh lý Tăng già chế độ luận« . Phỏng theo chủ thuyết « Tam dân » của Tôn Dật Tiên (« Dân Tộc », « Dân quyền », « Dân sinh » ) , Đại Sư đề ra « Tam Phật chủ nghĩa » là « Phật Tăng », « Phật Hóa », và « Phật Quốc ». « Phật tăng chủ nghĩa » là cải tạo giáo đoàn, bài trừ ngu tăng, đào tạo tăng tài, « Phật hóa chủ nghĩa » và « Phật quốc chủ nghĩa » là lấy Phật Giáo làm căn bản giáo hóa dân gian, phổ biến Bồ tát hạnh để tạo thành một Phật Quốc tịnh độ.

Thiền sư Thái Hư xuất bản Tạp chí Giác Xã năm 1918, sau đổi thành nguyệt san Hải Triều Âm.

Năm 1924, Ngài tổ chức một « Đại hội Phật giáo Liên hiệp thế giới » tại chùa Đại Lâm.

Vài năm sau, Ngài hướng dẫn phái đoàn Phật giáo Trung Hoa đi Nhật tham dự « Đại hội Phật Giáo Đông Nam Á ».

Năm 1928, ngài sang Âu Mỹ hoằng Pháp và lập « Phật học uyển » ở Paris.

Năm 1929, Thái Hư Đại sư kết hợp với TS Viên Anh thành lập « Trung Hoa Phật Giáo Hội »

Năm 1939 , Đại sư đứng ra tổ chức một đoàn Phật giáo Trung Hoa, xuất ngoại hoằng pháp khắp tất cả các nơi: Miến Điện, Ấn Độ, Nam Dương, Tích Lan v.v… dựa trên hậu thuẫn của các tổ chức Hoa Kiều.

Để chấn chỉnh tổ chức và đào tạo tăng tài, Ngài đã Thành lập « Kim Lăng Học Đường » ở Nam Kinh (1922), « Võ Xương Phật học viện » ở Võ Xương, « Mân Nam Phật học viện » ở Hạ Môn, « Thế giới Phật học uyển đồ thư quán » phụ thuộc Võ Xương Phật học viện, « Thế giới Phật học uyển hán tạng giáo lý viện » ở chùa Tấn văn Trùng Khánh, « Thế giới Phật học uyển Tịnh độ lâm » ở chùa Đại Lâm Lư Sơn, « Thế giới Phật học uyển Thuyền quán » ở chùa Tuyết Đậu Phụng Hóa, « Luật nghi viện » ở chùa Khai Phong…

Năm 1947, Thái Hư Đại sư viên tịch.

***

Phật Giáo Trung Quốc thời xưa có ảnh hưởng rất lớn tại Đông Nam Á. Tại các nước theo Nho học như Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên … , nhiều tông phái lớn có nguồn gốc tại Trung Quốc, như các tông phái Tịnh Độ, các tông phái Thiền Lâm Tế, Tào Động v.v…

Cuối thời nhà Thanh, hết loạn Thái Bình Thiên Quốc đến sự kỳ thị của các chính phủ và tổ chức cách mạng, rồi chiến tranh Trung Nhật, chiến tranh Quốc Cộng … Phật giáo gặp nhiều điều kiện khắc nghiệt, có khi bị đàn áp, nên suy yếu dần.

Những người Phật tử Trung Quốc, như cư sĩ Dương Nhân Sơn, Thái Hư Đại sư , đã dấn thân đấu tranh bảo vệ đạo Pháp, cố gắng chấn chỉnh tăng già, cố gắng khôi phục lại phần nào vị trí của mình trong phong trào Phật giáo thế giới. Nhưng thời cuộc đã không cho phép họ thực hiện lý tưởng. Các cuộc xuất ngoại thuyết pháp của Đại sư chỉ có ảnh hưởng về chiều rộng, không về chiều sâu. Đạo Phật Trung Quốc ngày nay chỉ còn loé sáng tại một vài nơi như Đài Loan, hay tại những địa phương đông đảo Hoa Kiều.

Về cứu tế, các hội Phật Giáo ở các địa phương thường lập ra cô nhi viện, dưỡng lão viện, bệnh viện …

***

Gần đây, trên mạng lưới điện tử có một số người khẳng định ảnh hường của Thái Hư Đại sư lên Phong trào chấn hưng đạo Phật ở Việt Nam, có người lại còn cường điệu tuyên bố rằng các Hòa Thượng Phước Huệ và Cư sĩ Lê Đình Thám « do đọc sách của Thái Hư mà phát động Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam « .

Khẳng định quá dễ , nhưng nếu phân tích được xem ảnh hưởng như thế nào thì vẫn hay hơn, vẫn cho thấy rõ thực hư hơn ! Không lẽ, không có Đại sư là không có phong trào chấn hưng ở Việt Nam sao? Quả thật, khẳng định như vậy , nếu không phải là hậu duệ đệ tử của Đại sư, muốn tô vẽ thêm cho thầy mình, sẽ không tránh khỏi mang tiếng nặng đầu óc vọng Hán.

Hải Triều, nhà văn, người đương thời, vốn chẳng có cảm tình gì đặc biệt với đạo Phật, lại thường tham gia tranh luận kịch liệt trên báo chí với các trí thức Phật tử, cũng chưa bao giờ đưa ra loại kết luận lạ lùng như vậy. Đứng ở vị trí khách quan, ông nhận định rằng phong trào chấn hưng thời đó có 3 nguyên do: Lòng tự ái dân tộc, khát vọng một lý tưởng để theo, nạn khủng khoảng kinh tế.

Ta cũng đừng quên là trước đó, năm 1920 Phạm Quỳnh đã viết bài « Phật giáo lược khảo » dựa trên tài liệu của người Pháp. Ở trong miền Nam , từ những năm 1920, phong trào chấn hưng đã rục rịch khởi đầu. Một phong trào luôn luôn có nhiều nguyên do, ảnh hưởng qua lại. Lập luận « nguyên nhân đầu tiên » hay « nguyên nhân duy nhất » không phải lập luận của người Phật Tử.  Nếu muốn nói đến liên hệ ảnh hưởng gần nhất của phong trào miền Trung thì phải kể tới phong trào chấn hưng ở miền Nam. Ngay từ năm 1923, Thiền sư Khánh Hòa, vốn có liên hệ rất mật thiết với Sơn môn Thừa Thiên, đã bắt đầu khơi động phong trào, và năm 1927 lại gửi người ra miền Bắc bắt liên lạc với các sơn môn ngoài đó, dù không đi đến kết quả nào.

Công cuộc chấn hưng cũng sảy ra trên ba miền Nam, Trung, Bắc chứ không phải chỉ một nơi.

Thực ra, vào những năm 30-40, các hoạt động rầm rộ của Đại sư , nhất là trên mặt quốc tế qua các cộng đồng Hoa kiều, cũng có tiếng vang tại Việt Nam. Tập san Hải Triều Âm cũng như một số bài giảng của đại sư được giới Phật tử có Hán học tham khảo. Tuy nhiên, xét cho nghiêm chỉnh, ảnh hưởng thực sự của Đại sư lên Phong trào chấn hưng tại Việt Nam không được bao nhiêu, và giới hạn nơi những người có Hán học. Thực trạng Phật Giáo Trung Quốc thời đó lại cũng chẳng sáng sủa hơn tình trạng Phật Giáo Việt Nam, nếu không nói là bế tắc hơn :

1 – Ngoài những tuyên bố nguyên tăc chung chung, ngoài vài khẩu hiệu sao lại từ chủ thuyết « Tam dân » của Quốc Dân Đảng Trung Quốc, những biện pháp chính của Thái Hư Đại sư , chắc chắn , trước hết, đều phải nhắm giải quyết một cách cụ thể những khó khăn của tăng già Trung Quốc, mà « cụ thể » tức là « đặc biệt », vì nếu không sẽ chỉ là sáo ngữ, nói cho oai, sau những pháp nạn liên tiếp trong mấy chục năm qua: Loạn Thái Bình Thiên Quốc, phong trào « miếu sản hưng học », sự tấn công của các phong trào cách mạng… Chùa chiền bị phá hủy. hay bị tịch thu đổi thành trường học, sư tăng bị bắt hoàn tục, kinh điển bị thất tán … Cư sĩ Dương Nhân Sơn, một Phật tử nói ít làm nhiều , cụ thể, đã âm thầm nhẫn nại tạo cơ sở in ấn kinh sách, đi tìm kinh điển từ bên Nhật về bổ túc những thất tán trong thời pháp nạn, xây dựng Kỳ Đoàn Tinh Xá, tại nơi đó Thái Hư được đào tạo.

Thêm một mục tiêu đặc thù khác của Phật Giáo Trung Quốc là làm sao khôi phục lại uy thế ngày xưa của mình tại vủng ảnh hưởng Nho giáo, trong lúc thực lực đã cạn dần. Đại sư đã tạo ra nhiều tổ chức « Thế giới… », tạo ra đoàn xuất ngoại hoằng pháp, … nhưng « một con én làm sao đem lại mùa xuân » ?

Phật giáo Việt Nam thời đó, trong cụ thể, khác với Phật Giáo Trung Quốc chính vì tuy có suy yếu, chưa theo kịp đà phát triển mới của xã hội, nhưng chưa gặp những pháp nạn đó, lại không phải lo chuyện hơn kém thế đứng trên trường quốc tế.

Điều kiện cụ thể khác nhau , tinh thần khác nhau, cần những biện pháp giải quyết khác nhau, khó có thể bắt chước nhau.

2 – Nếu kể các sinh hoạt cụ thể, đương nhiên phải có, của các phong trào Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản thì cả ba phong trào đều có lập hội, tổ chức các lớp đào tạo Tăng Ni, tổ chức cứu tế, xã hội… theo tinh thấn mới, theo phương pháp âu tây. Đây là xu hướng phát triển thời đại ! Nếu muốn so đo, thì có lẽ phải xem Nhật Bản là người đi đầu. Việt Nam và Nhật bản còn dịch kinh tạng sang tiếng nói của mình, đầu tiên là từ tiếng Hán, về sau là từ tiếng Pali. Đường hướng phát triển của Việt Nam gần với đường hướng của Nhật Bản hơn.

3 – Thời bấy giờ, trong cơ bản, việc chấn hưng Phật giáo là đổi lối suy nghĩ, đổi lối hành động, là hội nhập tư tưởng Tây Phương vào văn hóa Phật Giáo. Phật giáo Nhật Bản đã gửi người qua Tây Phương học tập.

Việt Nam trong giai đoạn đầu tiên , vì đa số những người đã trường thành chỉ biết chữ nho, ít người biết chữ Pháp, nên phải dựa vào « tân thư » , « tân văn » Trung Quốc để tiếp cận tư tưởng phương Tây. Nhưng điều cần lưu ý là « tân thư » « tân văn » chỉ là phương tiện, là bàn đạp để vượt qua, bỏ qua văn hóa Hán, không phải là mục tiêu muốn đạt tới.

Song song, từ đầu thế kỷ thứ 20, Việt Nam đã tiếp cận trực tiếp hàng ngày với văn hóa Tây Phương rồi , học hỏi văn hóa Pháp đã đành, nhưng còn tham khảo đạo Phật qua sách báo phương Tây.Từ 1917, Nam Phong giới thiệu văn hóa Pháp, dịch các tác phẩm nổi tiếng Pháp của Descartes, Montesquieu…. Năm 1920, mở đầu bài « Phật giáo lược khảo » , Phạm Quỳnh viết :« …Vậy ký giả muốn tóm tắt sở đắc của các nhà bác học Âu châu (nhất là người Đại Pháp) đã chuyên trị về Phật học, cùng tham bác ít nhiều kinh sách bằng chữ Tàu, mà soạn ra bài lược khảo này… » (Nam Phong số 40 Octobre 1920).

Chính sách của người Pháp là loại bỏ ảnh hưởng văn hóa Hán thay thế bằng văn hóa Pháp, và người Việt Nam đã chấp nhận đường lối này, xem đây là phương tiện để đi đến tự cường. Năm 1909, trong kỳ thi Hương, trường Hà Nam , dù chủ yếu là thi bằng chữ Hán, nhưng đã có 3 bài luận bằng chữ Quốc ngữ (văn, địa dư, khoa học và tính đố).

Kể từ sau thế chiến thứ nhất, 1920 và về sau, thi cử bằng chữ Hán bị bãi bỏ, thanh niên bỏ chữ Hán , quay sang học chữ Pháp, học viết chữ Quốc Ngữ. Vào những năm cao điểm của phong trào chấn hưng, 1935-1940, thì những người trẻ biết chữ Hán còn rất ít.

Năm 1939 , Cư Sĩ Lê Ðình Thám viết : « Tam-tạng kinh điển trong xứ ta toàn là chữ Hán, trong các thời đại Hán học thạnh hành xưa, ai ai cũng có thể đọc nguyên văn, không cần phải phiên-dịch, nhưng ngày nay Hán học đình đốn, bên tai đã vắng nghe những tiếng « Tử viết », thì còn mấy ai đọc được Hán-văn, nên sự phiên-dịch ra quốc-văn đã thành một vấn-đề rất trọng yếu cho nền Phật-giáo tương-lai ở xứ ta. » (« Lời giới thiệu » của tập « Phật-Giáo Khái-Luận » , tác giả Cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục, Học Tăng Mật Thể dịch, Huế, 1939).

Thời đó, người ta bỏ văn hóa Hán chuyển sang văn hóa Tây chứ không đi ngược lại. Và như vậy, theo đà, đạo Phật Việt Nam, từ chỗ bế tắc, hé mở một con đường mới với đội ngũ những người Phật tử trẻ Tây học – là tăng sĩ hay cư sĩ.

4- Phật Giáo Việt Nam triều Nguyễn chịu ảnh hưởng nhiều của Phật Giáo Trung Quốc, kinh điển hoàn toàn bằng chữ Hán, nghi thức là nghi thức sao chép của Trung Quốc, lại tụng niệm hoàn toàn bằng tiếng Hán âm Việt . Về tu hành thì chỉ biết kinh điển đạo Phật Phát Triển, còn gọi là đạo Phật Đại Thừa, coi thường đạo Phật Nguyên thủy, còn gọi là Tiểu Thừa. Hầu hết các chùa chiền Việt Nam đều tụng kinh trích từ quyển Thiền Môn Nhật Tụng đã lưu hành từ rất lâu bên Trung Quốc. Những bài tụng Việt sau này được dịch ra từ đấy.

Một trong những mục tiêu chính của công cuộc chấn hưng là làm sao cho quần chúng Phật tử hiểu giáo lý Phật, hiểu kinh. Do đó, bên cạnh các hoạt động đào tạo tăng tài, cứu tế xã hội, hầu hết chú tâm của mọi tổ chức Phật Giáo Việt Nam sau này , là dịch kinh từ chữ Hán sang chữ Việt, soạn nghi thức tụng niệm bằng tiếng Việt, tìm hiểu giáo lý qua sách báo bằng tiếng Việt.

Thầy Mật Thể viết « Tôi thiết nghĩ: Phật-giáo-truyền qua Việt-Nam ta, đã có cái lịch-sử gần hai ngàn năm, mà sự phiên-dịch kinh điển, dựng thành một nền Phật-Học bằng thứ tiếng bản quốc thật chưa có, đều đó thật đáng buồn ! – cũng vì thế mà Phật-giáo ở nước ta thấy cứ ũng-trệ mãi. » (« Lời tựa », của tập « Phật-Giáo Khái-Luận » ,1939)

Một bước thứ hai nữa, kể từ những năm 1950 trở đi, là dịch thằng kinh điển từ tiếng Pali sang tiếng Việt, là tiếp cận trực tiếp kinh điển nguyên thủy. Nguồn kinh điển không còn chỉ giới hạn trong Hán Tạng. Phương tiện học Phật được nới rộng.

Ta có thể nói, con đường của phong trào chấn hưng tại Việt Nam cũng là con đường đưa đạo Phật Việt Nam từ từ thoát khỏi sự lệ thuộc vào đạo Phật Trung Quốc.

Ta cũng thấy một diễn biến tương tự trong phong trào tại Nhật Bản đã đưa Phật Giáo xứ này tách khỏi Phật Giáo Trung Quốc, ít ra cũng về mặt văn hóa. Nhưng cũng phải công nhận là « tinh thần ái quốc » của người Nhật rất mạnh.

5 – Ảnh hưởng, nếu có, là việc làm rầm rộ trên mặt quốc tế của Thái Hư Đại sư đã khuyến khích một số Phật tử , và nhất là sư tăng, đầu óc vẫn còn lệ thuộc vào đạo Phật Trung Quốc, chấp nhận chuyển theo phong trào đổi mới, đã và đang nẩy nở khắp nơi, ngay tại đất nước mình. Đây là duyên lành phụ trợ, không phải là lực đẩy căn bản.

Với những người như Cư Sĩ Lê Đình Thám, Y Khoa Bác sĩ ngạch Pháp quốc, vốn có lối suy nghĩ, kinh nghiệm làm việc, tổ chức theo lối mới, theo phương Tây, thì sách báo của Thái Hư chắc chẳng ích lợi bao nhiêu, giỏi lắm cũng chỉ là tài liệu tham khảo.

Rất có thể là lúc soạn điều lệ cho hội An Nam Phật học, Cư Sĩ Lê Đình Thám có tham khảo trước tác của Thái Hư Đại sư để xem ngài nghĩ sao về vấn đề cải tạo Tăng đoàn. Tham khảo không có nghĩa là sao chép, vì điều kiện ở Việt Nam khác điều kiện Trung Quốc và hơn nữa chưa có gì chứng tỏ rằng Đại sư đã thực hiện được những gì ngài tuyên bố. Xưa nay, giữa lời nói và việc làm, luôn luôn có một khoảng cách. Lời nói càng to lớn thì khoảng cách càng xa. Không phải cứ đưa ra được một khẩu hiện là trở thành người tiên phong. Cụ thể phải xem đã làm được hay chưa, và làm như thế nào? .

Dù sao, nhìn chung, tình hình xã hội Việt Nam và quốc tế đã khơi động phong trào chấn hưng đạo Phật tại Việt Nam, gần như song song với phong trào tại Trung Quốc. Chung quanh, người ta rầm rộ tổ chức, lập đảng, lập nhóm, ra báo, lập tôn giáo mới, tranh luận, … văn hóa cũ đang bị lung lay đến tận gốc rễ, trí thức Phật tử ngủ yên được sao ? Phật giáo Việt Nam muốn tồn tại thì phải thích ứng với điều kiện mới, nào cần phải một ai từ xa tới thúc đẩy ? Có chăng là khi bắt tay vào việc, cũng liếc mắt xem các bạn đạo xứ khác làm gì, tham khảo kinh nghiệm của bạn, tra cứu các trước tác của bạn, cũng như học hỏi kinh nghiệm và trước tác của nhiều người khác, kể cả những người ngoại đạo, kể cả những kẻ không thích gì mình, « học thầy không tầy học bạn » là như vậy .

Thời đó, không phải chỉ có Thái Hư, mà hình ảnh của các vị « tân tăng Nhật Bản » cũng lôi kéo sự chú ý của Phật tử Việt Nam… . Nhưng pháp môn này không được phát triển ở Việt Nam vì điểu kiện của Phật Giáo Nhật Bản, cũng như của Phật Giáo Trung Quốc, khác điều kiện của Phật Giáo Việt Nam.

Ngoài ra lại còn sách báo nghiên cứu đạo Phật bằng tiếng Pháp, tiếng Anh .

Từ những phát triển nội tại, trong bối cảnh điều kiện khách quan đã kể trên, Phật giáo Việt Nam đã có hai thành quả độc lập đáng chú ý là bộ Đại Tạng dịch từ tiếng PaliTổ chức Gia Đình Phật Tử.

***

Thực ra, vào khoảng những năm 1930-40, giữa Phật Giáo Trung Quốc với Phật Giáo Nhật bản cũng có xu hướng tranh giành ảnh hưởng trên mặt quốc tế.

Thiền Sư Thiện Chiếu , trong bài « Tại sao tôi cảm ơn đạo Phật ? » (khoảng 1936) có nhắc qua chuyện này :

 » Mà cho đến kẻ được tiếng là Phật học cao thâm như Thái Hư pháp sư nước Tàu và Võ Đằng tẩu quân nước Nhật, khi ở Pa-ri, họ cũng ganh ghét nhau vì tranh cái danh dự truyền bá Phật học trước nhất ở châu Âu. » [7]

***

(Bài viết  đã được đọc tại Bàn tròn « Đạo Phật dấn thân » tại Trúc Lâm Thiền Viện, Villebon Sur Yvette, ngày chủ nhật 10/1/2016)



[1] Nguyễn Lang : sđd , tr 19

[2] Pháp sư Thánh Nghiêm : « Lịch sử Phật Giáo Thế Giới  » Tập II – tr 622

[3] Pháp sư Thánh Nghiêm sđd, tr 623

[4] Nguyễn Lang : sđd , tr 19

[5] Trần Độc Tú là Tổng Bí thư đầu tiên của Ban Chấp hành trung ương Đảng CS Trung Quốc (1921), sau này bị đánh giá là có đường lối cơ hội hữu khuynh nên bị mất chức (1927) và năm 1932 bị khai trừ khỏi đảng.

[6] xem :

– Thích Nhật Quang: « Tiểu sử Đại sư Thái Hư (Theo Hải Triều Âm Xã)  » , http://quangduc.com

– Ngụy Đạo Nho : « Phật giáo Trung Quốc và Xã hội hiện đại: Vai trò của Thái Hư Đại Sư và HT Ấn Thuận » – Nguyên Hiệp dịch ( http://thuvienhoasen.org )

[7] Trần Văn Giàu, sđd tr 290