Tôi được sinh vào tháng 8-1975, gần 4 tháng sau ngày thống nhất đất nước, trong một gia đình công nhân bình thường ở Hà Nội, có 3 anh chị em.
Thành phố của tôi những năm tháng đó nghèo khó nhưng vẫn có gì đó đẹp và thơ mộng. Trong ký ức của cô nhỏ Mỹ Linh ngày ấy, vẫn còn sót lại hình ảnh khu tập thể và căn hộ 10m² đi vô đi ra là đã hết của gia đình mình. Chẳng nhà nào có khu bếp và vệ sinh riêng.
Ở đó, mỗi tầng, mấy chục gia đình dùng chung một khu vực. Thời bao cấp, mọi thứ dù nhỏ nhất đều được phân phối bằng tem phiếu, phải chật vật mà sống, tằn tiện qua ngày. Người lớn vì đói khổ quá mà tiếng to tiếng nhỏ cũng là thường, rồi lâu dần thành những tiếng đời quen thuộc. Cũng chẳng ai dùng ái ngữ với ai mấy khi.
Chính trong khoảng thời gian xám ngắt mà người dân mơ một chiếc xe đạp Thống Nhất, một cái quạt tai voi, một đôi dép nhựa Tiền Phong, một bao gạo không có mùi mốc, một bánh xà phòng Camay… cũng khó ấy, lũ trẻ con chúng tôi lớn lên.
Muốn lớn thế nào thì lớn, tự ăn, tự học, tự bày trò chơi với nhau vì cha mẹ hầu hết là công nhân đầu tắt mặt tối tăng ca 10 tiếng mỗi ngày ở nhà máy. Đám con trai chơi đá cầu, đánh quay ; còn lũ con gái đánh bi, ô ăn quan, chơi chuyền…
Trong khoảnh sân rộng bình yên hiếm có của những ngày đất nước sau chiến tranh và đi lên đổi mới ấy, chúng tôi – những đứa trẻ của đất nước “Việt Nam mới” – chơi mướt mát mồ hôi từ sáng đến chiều muộn, hôi rình. Chơi mà lớn.
Tôi cất tiếng hát đầu tiên lúc 5 tuổi hoặc bé hơn – tôi không nhớ chính xác. Trí nhớ lõm bõm. Cuộc đời có nhiều phút giây đi qua rồi mất hút như thế. Mình cứ hát thôi. Vui cũng hát, buồn khổ cũng hát, đói no cũng hát.
Cứ hát váng lên cả những năm tuổi thơ tra tấn lỗ tai gia đình và hàng xóm. Rồi cuộc sống ở khu tập thể ấy cứ thế trôi đi, những năm bao cấp tem phiếu với sổ gạo cũng trôi đi, tôi bắt đầu chứng kiến Hà Nội chuyển mình từ chậm đến nhanh dần, giờ thì nhanh đến nỗi không kịp nhìn nữa.
Giống như nhà văn Nguyễn Bình Phương viết trong một tiểu thuyết của anh : “Hà thành bây giờ khác xưa, gió thổi nhanh hơn, người đi vội hơn”. Mỗi ngày của tôi đều giống như mọi ngày. Tôi vốn chẳng thích những điều bất thường. Thật bình thường càng tốt.
Sinh ra đúng những năm sau chiến tranh đói khát và vất vả, như cái cây non được tôi luyện qua những ngày giông bão, tôi cứng cáp sớm và lì đòn. Số phận giúp tôi sớm hiểu và trân trọng những gì mình có được. Cũng giúp tôi kiên trì, bền bỉ, không từ bỏ, ngay cả những lúc khó khăn nhất vẫn nhìn đời lạc quan.
Trong album Chat với Mozart Vol.II mà tôi công bố cách đây vài năm, tôi thích nhất ca khúc Bài ca tự do. “Tận cùng hết những buồn đau / Sẽ thấy sớm mai yên bình”. Bao nhiêu năm sống và hát, mới thấm thía hết ý nghĩa của nỗi đau, của sự bình yên, an nhiên trong cuộc sống và cả sự tự do trong tâm trí, điều gì cần giữ, điều gì cần buông trong cuộc đời này.
Bất kỳ ai lựa chọn theo con đường nghệ thuật cũng đều phải đối mặt với nỗi đau và sự cô đơn – những thách thức tinh thần rất lớn hoàn toàn có thể đánh gục một người nghệ sĩ. Đó cũng là cái giá phải trả cho hành trình chinh phục sự tự do trong tâm tưởng, được theo đuổi và cháy hết mình cùng ước mơ.
May mắn, trên con đường đó tôi đã không một mình. Người ta nói đi hết tuổi 45, ta như được sinh ra lần nữa. Là khi ta đủ trưởng thành để rũ bỏ bộ lông cồng kềnh và già cỗi bằng một bộ lông mới mạnh mẽ hơn để tiếp tục hành trình mới. Tôi từng xem một bộ phim tài liệu về loài chim đại bàng. Đó là một hành trình đau đớn nhưng cũng đầy quyết tâm rực rỡ.