Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp 1919-1923 (phần cuối) : Nhà hoạt động cách mạng giải phóng các thuộc địa

         Như chúng ta đã biết, hàng loạt đại diện các dân tộc thuộc địa đã gửi thư lên Hội nghị Versailles, nêu lên những nguyện vọng của dân tộc mình. Do đó, rất tự nhiên khi anh Nguyễn liên hệ với họ.  Anh đã có những tiếp xúc và từng bước có mối liên hệ thường xuyên với các bạn Algérie, Tunisie, Madagascar, Irlande, Triều Tiên, Trung Quốc… kể cả một số nhân vật tiến bộ tại Mỹ.

            Ngày 16 và 17-7-1920, lần đầu tiên trên báo L’humanité đã đăng « Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa » của Lénine, trong đó nêu : « … phải phân biệt thật rõ nét những dân tộc bị áp bức, phụ thuộc, không được hưởng quyền bình đẳng, với những dân tộc đi áp bức, bóc lột, được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi » và khẳng định « quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc không phân biệt màu da ». Nguyễn Ái Quốc đã viết  sau này : « Đó là một luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước bị áp bức ».

            Cuối tháng 8-1920, anh tham dự cuộc mít tinh lớn do Đảng xã hội Pháp tổ chức tại rạp Cirque d’Hiver, quận 11 Paris, để nghe Marcel Cachin và Ludovic Oscar Frossard, hai đại biểu vừa được Đảng cử đi Nga về báo cáo những vấn đề liên quan đến Quốc tế III.

             Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp tại thành phố Tours ngày 25/12/1920. Tại phiên họp buổi chiều ngày 26/12, Chủ tịch Đại hội Emile Goude (đại biểu Quốc hội của vùng Bretagne) mời Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại biểu của Đông Dương phát biểu. Anh đã tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương, kêu gọi giai cấp công nhân và những người cách mạng Pháp hãy ủng hộ sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam cùng các dân tộc thuộc địa khác và với « tư cách của một chiến sĩ trong hàng ngũ vô sản », anh kêu gọi đứng lên theo quan điểm của Quốc tế cộng sản III do Lénine lãnh đạo. Cuối cùng, anh đã có lời nói thống thiết :  « Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi : Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi ! ». Sau đó, anh cùng những đại biểu chủ trương gia nhập Quốc tế III,  tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản (Section Française de L’Internationale Communiste, viết tắt là SFIC).

         Từ phút ấy, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành người cộng sản và là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

          Ngay tại Đại hội, công an Pháp đã có mặt và đòi bắt anh, nhưng nhờ các đại biểu tham dự đã bảo vệ anh nên họ không làm được gì.

       Ngày 14-1-1921, anh phải vào bệnh viện Cochin, số 27, đường Faubourg-Saint-Jacques, quận 14 Paris. Anh được sắp xếp trong khu Pavillon Pasteur để mổ một ung nhọt trầm trọng (abcès chronique) ở vai. Ca mổ được tiến hành ngày 19/1. Ngày 21/2, được tin Phan Châu Dật – con trai cụ Phan Châu Trinh qua đời, anh đã nhờ một y tá cầm thư chia buồn đến cho cụ Phan Châu Trinh. Ngày 25/3, anh mới được xuất viện, sau hơn 2 tháng nằm tại nhà thương.

            Tháng 7-1921, tại Paris, anh đã cùng với một số người yêu nước của các thuộc địa thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa nhưng chưa chính thức hoạt động. Lúc thành lập Hội, có khoảng 200 hội viên và hai tổ chức người thuộc địa xin gia nhập với tư cách hội đoàn, đó là Nhóm người An Nam yêu nước và Hội đấu tranh cho quyền con người ở Magagascar.  Anh được bầu vào Ban Chấp hành Hội Liên hiệp thuộc địa và là người đứng đầu trong Ban thường vụ. Mục đích chính của Hội là  « Bênh vực cho quyền lợi của tất cả đồng bào ở các xứ thuộc địa » và Tuyên ngôn của Hội khi chính thức đi vào hoạt động tháng 8-1922, nêu :

« Chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em. Hội Liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em trong công cuộc ấy… »   

            Trong suốt thời gian vừa qua, anh vẫn giành thời giờ nghiên cứu Luận cương của Lénine, từ đó anh rút ra kết luận : công cuộc giải phóng dân tộc, muốn thành công, thì phải có bài bản, có chiến lược, sách lược, không thể làm « chơi » được. Và điều tiên quyết hơn cả, phải có một đảng cộng sản đứng ra lãnh đạo công cuộc này.

          Từ đây, bắt đầu một thời kỳ hoạt động liên tục với những buổi họp, diễn đàn và những bài viết trên báo chí, nhằm lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa, hướng họ vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.

           Trong năm 1921, các tư liệu của Pháp cho ta thấy một số các họat động của anh : 

            Tham gia vào các buổi họp : Chi bộ cách mạng (9/1), Hội đồng toàn quốc Đoàn thanh niên cộng sản (15/5), mít tinh của Đảng cộng sản tại nghĩa trang Père Lachaise để tưởng niệm « Tuần lễ đẫm máu » (29/5), Hội cộng hòa các cựu chiến binh (5/6), Ban nghiên cứu thuộc địa (9/7), Chi bộ Đảng quận 17 (10/7 và 17/12), Liên hiệp công đoàn (23/10), Ủy ban liên đoàn quốc tế (12/12), Đoàn thanh niên cộng sản quận 13 (15/12), Liên đoàn công nhân xe lửa tại (18/12).

            Về các bài báo, anh đã viết : Đăng trên báo La Vie Ouvrière : Mười trường học – 1.500 đại lý rượu, số 100 (4/1) ;  Những kẻ bại trận ở Đông Dương, số 101 (8/4) ; Đông Dương (số 14 và 15, tháng 4 trên La revue communiste) ; Quyền của những người lính chiến, số 105.(5/7) ; Vụ âm mưu ở Đông Dương gửi cho Nhóm người An Nam yêu nước (9/8) ; Phong trào cách mạng ở Ấn Độ đăng trên La Revue Communiste, số 18 (9/8) ;  Tội ác của chủ nghĩa thực dân, đăng trên báo La Vie Ouvrière (30/9) ; Sự quái đản của công cuộc khai hoá đăng trên báo Le Libertaire (30/9) ; Hãy yêu mến nước Pháp, người bảo hộ các anh đăng trên báo Le Libertaire (7/10).

            Trong bài « Đông Dương », đăng trên tạp chí La Revue Communiste, số 14 (4-1921) và số 15 (5-1921), anh khẳng định :

« Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến ».

****

            Khoảng đầu năm 1921, Đảng đã lo được cho anh giấy phép lao động và anh đã tìm được việc làm rửa, phóng và sửa ảnh cho một hiệu ảnh của ông chủ người Pháp, tiệm tên là Lainé, ở số 7 ngõ Compoint, quận 17 Paris.

             Có lẽ vì không muốn tiếp tục làm phiền đến các vị đàn anh đã từng giúp anh bao năm qua nên anh đã quyết định rời khỏi nhà số 6 Villa des Gobelins. Paul Vaillant Couturier, người bạn và đồng chí bấy lâu nay của anh, đã nhờ một đảng viên khác tìm giúp anh một nơi ở mới : đó là một căn buồng nhỏ hẹp trên gác 2, nhưng lại ngay bên cạnh chỗ làm hiện tại của anh : nhà số 9 ngõ Compoint, quận 17 Paris. Buồng anh ở trên gác 2, rộng 9m2, hoàn toàn trống không, chỉ có 4 bức tường, đủ kê một cái giường, một cái bàn con và một cái tủ nhỏ. Do vậy, việc ăn uống, việc vệ sinh, việc giặt dũ là vấn đề phải tính. Và còn những ngày lạnh lẽo mùa đông thì ra sao đây ?

            Anh dọn đến ngày 14-7-1921. Lúc ấy may thay là mùa hè, nhưng anh sẽ phải chịu đựng cái lạnh khủng khiếp của mùa đông tới và, biết đâu đấy, sẽ còn những mùa sau nữa. Quả nhiên thế, khi mùa đông đến, mỗi sáng anh đã phải để một viên gạch vào lò bếp của nhà trọ ở tầng dưới, chiều đến anh lấy viên gạch ra, bọc nó vào tờ báo để lót ở chỗ giường nằm cho đỡ lạnh.

            Mặc dù sống trong gian buồng chật hẹp, tồi tàn ấy ở số 9 ngõ Compoint nhưng đối với anh, sau khi rời nhà số 6 phố Villa des Gobelins, có lẽ lại là một bước ngoặc quan trọng. Không những nó đánh dấu về sự độc lập về kinh tế của anh với cụ Phan Chu Trinh và ông Khánh Ký mà từ nay, địa chỉ này còn trở thành một trung tâm mới thu hút mọi tầng lớp Việt kiều. Các mối liên hệ mà anh đã có trong kiều bào, nay lại về tụ tập ở đây. Cả những sinh viên Việt Nam ở cư xá sinh viên phố Sommerard, quận 5 Paris, cũng tìm đến anh. Và người ta thấy những Việt kiều thường xuyên đi lại nhà số 9 là Trần Văn Kha, Trần Xuân Hộ, Nguyễn Văn Thịnh, Bạch Thái Thông, Lã Quý Lợi, Nguyễn Văn Khương, Trần Quân Lâm, Bùi Công Ngôn… Có những kiều bào ở tình xa đến thăm anh, cùng anh bàn bạc như Nguyễn Văn Dị (Le Havre), Nguyễn Văn Liên, nấu bếp cho viên quan Baroux ở thành phố Tours,  Nguyễn Duyên, thợ ảnh ở Castres.. Những nguời này, sau khi về nước đã  truyền bá tư tưởng và lời kêu gọi đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc và tham gia vào phong trào cách mạng tại Việt Nam. Riêng ông Nguyễn Văn Dị, tức là ông Bùi Lâm, sau này đã từng là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa II (1960), là đại sứ Việt Nam tại Bulgarie và Cộng hòa dân chủ Đức (1964).

Trước tình hình này, cũng không có gì ngạc nhiên, để chống lại ảnh hưởng ngày càng lớn của Nguyễn Ái Quốc, chính quyền Pháp đối phó bằng cách thành lập một số tổ chức « yêu nước » của người Việt Nam, nhằm đưa suy nghĩ của kiều bào vào một hướng khác, có lợi cho họ như : Hội tương tế những người Đông Dương hoặc Ái hữu những người lao động chân tay Đông Dương. Trên thực tế, lịch sử của phong trào Việt kiều yêu nước tại Pháp đã phải trải qua những cuộc sâu xé như vậy mãi cho đến sau này.

     Cuối năm 1921, anh đến để gia hạn thẻ căn cước ở quận 17, bị làm khó dễ về giấy tờ nên nhà in Lainé không thuê anh làm việc nữa. Từ đó, anh tự quảng cáo nghề ảnh để sinh sống. Người ta đọc nhiều loại quảng cáo của anh đăng trên một số báo của Paris hồi đó, như : « Ảnh chân dung nghệ thuật, từ 20 Francs trở lên, có khung từ 40 Francs, liên lạc với Nguyễn Ái Quốc, nhà số 9, ngõ Compoint, quận 17, Paris. Đối với các tỉnh và thuộc địa : khách hàng chịu tiền đóng gói và cước gửi bưu kiện ». Hoặc : « Nếu bạn muốn giữ kỷ niệm sinh động về người thân và bạn bè của mình, hãy phóng đại ảnh tại nhà Nguyễn Ái Quốc, số 9, ngõ Compoint, quận 17. Ảnh  chân dung tốt, khung ảnh đẹp, từ 45 Francs trở lên ».

      Nhưng vẫn không đủ sống, anh phải làm thêm nghề vẽ thuê trên quạt giấy, chụp đèn, vẽ giả đồ cổ Trung Quốc hoặc kẻ chữ biển quảng cáo hàng cho những nhà bán than.  Mật thám Pháp theo dõi anh, báo cáo như sau : « Làm những nghề nói trên, Nguyễn Ái Quốc được trả tiền công rất tồi. Nguyễn sống cực khổ ». Mùa rét anh vẫn chỉ có viên gạch nung để sưởi.

         Ngày 12-12-1921, anh được bầu là đại biểu chính thức dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I Đảng Cộng sản Pháp, họp từ ngày 25 đến 30-12-1921 tại Marseille. Tại buổi họp đầu tiên, anh được chỉ định  làm phụ tá cho Chủ tịch Đại hội, ông Jules Blanc. Bốn ngày sau, chiều ngày 29-12, anh được mời trình bày dự thảo « Nghị quyết về chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa ». Trong đó, anh nhấn mạnh : « Nhưng điều mà người ta có thể trông đợi ở Đại hội Marseille kỳ này, trước hết là Đại hội tán thành nguyên tắc thành lập một cơ quan đặc biệt phụ trách chính sách về thuộc địa của Đảng  […] từ đó Đảng mới có một chính sách thuộc địa rõ ràng, có phương pháp và thiết thực ».

            Sau Đại hội, anh đề nghị Ban lãnh đạo Đảng thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa, có nhiệm vụ giúp Đảng cập nhật thông tin về tình hình các thuộc địa, đề xuất các chính sách đấu tranh, thiết thực giúp đỡ và phối hợp đấu tranh với các dân tộc thuộc địa. Ý kiến này được chấp thuận.

            Ban nghiên cứu thuộc địa, văn phòng đặt ngay trong trụ sở của Đảng, số 12 đường Lafayette, quận 9 Paris. Anh được cử vào nhóm phụ trách Ban này gồm một số đảng viên từng ở thuộc địa và am hiểu vấn đề thuộc địa. Đây là một cơ quan có nhiệm vụ sưu tầm, nghiên cứu các vấn đề về thuộc địa được chia thành 5 Tiểu ban theo dõi 5 khu vực thuộc địa Pháp gồm : Bắc Phi (Algérie, Tunisie, Maroc), Tây Phi (Sénégal, Soudan, Guinée, Côte d’ivoire…), Châu Phi xích đạo – Afrique équatoriale (Congo, Tchad, Gabon…), Đông Dương và Madagascar. Anh Nguyễn lo Tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương.

         Tiếp đó, anh lại được cử đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Cộng sản Pháp, họp ở Paris, từ ngày 21 đến ngày 24-10-1922. Tại đại hội này, vấn đề thuộc địa vẫn không có trong chương trình nghị sự. Trên diễn đàn của Đại hội, anh đã lên tiếng phê bình Đảng Cộng sản Pháp chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Từ đó, Đại hội đã biểu quyết thông qua: Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa do Ban Nghiên cứu thuộc địa đệ trình, trong đó nêu : “Vì hoà bình thế giới, vì tự do và sự no ấm của mọi người, những người bị bóc lột thuộc mọi nòi giống, chúng ta hãy đoàn kết lại và đấu tranh chống bọn áp bức”. Sau đó, Lời kêu gọi đã được viết rút gọn bằng tiếng Việt, in thành truyền đơn và bí mật gửi về Việt Nam

        Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần I và Đại hội II của Đảng Cộng sản Pháp đã góp phần đánh dấu một bước tiến mới trong nhận thức và trong hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề thuộc địa.

***     

            Ngày 19-2-1922, buổi họp của Ban chấp hành Hội liên hiệp thuộc địa được tổ chức tại số 28, đại lộ Arago, quận 14 Paris, đã quyết định xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria) làm  cơ quan ngôn luận. Anh được phân công làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút của tờ báo. Đây cũng là tờ báo được coi là tiền thân của báo Đoàn Kết, cơ quan ngôn luận của Hội người Việt Nam tại Pháp ngày nay.

             Le Paria số 1, ra ngày ngày 11-4-1922, được in trên khổ giấy 36 x 50cm.

          Phía trên, bên cạnh tên chính của tờ báo bằng chữ Pháp: Le Paria còn có tên báo bằng chữ Ả Rập ở bên trái và chữ Hán ở bên phải : Lao động báo. Tiêu đề của báo là Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa. Địa chỉ của tờ báo : số 16 đường Jacques Calot, quận 6 Paris (sau này chuyển về số 3 Marché des Patriarches, quận 5 Paris).

          Số này có đăng Lời kêu gọi, nêu rõ mục đích, tôn chỉ của tờ báo: « Báo Le Paria ra đời do sự thông cảm chung của các đồng chí ở Bắc Phi, Trung Phi và Tây Phi thuộc Pháp, ở Madagascar, ở Đông Dương, Antilles  và Guyanne » và « Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải phóng loài người ».

            Anh phụ trách tờ báo từ số 1 đến số 15 (6-1923). Trong thời gian này, anh viết 30 bài, cùng vẽ những bức tranh, ký họa châm biếm. Nội dung các bài viết này tập trung vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân trên tất cả các lĩnh vực : chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân Đông Dương và các thuộc địa khác. Qua từng bài báo, chúng ta thấy lý luận của anh ngày càng rõ nét về cuộc đấu tranh giành độc lập :  quan hệ giữa thực dân và nhân dân các thuộc địa  tự nó đã chất chứa mâu thuẫn không thể điều hòa được và trước mắt phải đoàn kết giữa nhân dân các thuộc địa với nhân dân lao động tại chính quốc.

            Thời kỳ này, anh cũng đã vận động Nhóm người An Nam yêu nước ra báo Việt Nam hồn, chủ yếu hướng về độc giả Việt Nam. Nhưng do anh rời Pháp đi Liên Xô nên dự định ra báo này chưa kịp thực hiện. Sau đó, báo Việt Nam hồn ra đời vào tháng 1-1926, dưới sự chỉ đạo của ông Nguyễn Thế Truyền.

            Ngày 13-6-1923, từ Gare du Nord, được Đảng cộng sản Pháp tổ chức đưa anh bí mật rời Paris bằng tàu hỏa đến Berlin (Đức). Ngày 30-6-1923, từ Hambourg (Đức), anh đi tàu thủy đến Pétrograd (Liên Xô). Ít ngày sau, anh lại lấy xe lửa đi Moscou, bắt đầu một thời kỳ hoạt động mới.

            Tại Liên Xô, anh đã gặp và trả lời phỏng vấn nhà thơ Ossip Mandelstam và ông này đã viết :

« Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai… Dân An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới ».

Hết.

Laisser un commentaire

%d blogueurs aiment cette page :