Lời tựa
« Lễ thất ư hạ tầm ư di » – Lễ mất ở Hạ tìm ở di.
Nghĩa là: văn hoá mất đi ở Hoa Hạ có thể tìm lại được ở những nơi vốn không phải Hoa Hạ.
Đó gọi là hóa thạch ngoại biên. Càng xa trung tâm càng giữ được lâu và nhiều. Ví dụ, như khi nhà Thanh lên nắm quyền ở Trung Quốc thì văn minh Tống Minh lại còn ở Việt Nam, Triều Tiên. Nhật còn giữ cả văn minh Đường Tống vì xa Trung Quốc hơn cả.
Phật giáo nguyên thuỷ có lẽ cũng rơi vào trường hợp như vậy. 1 ví dụ khác, ở Việt Nam, khi trung tâm chuyển về Huế thì Bắc Bộ vẫn lưu giữ được nhiều nét xưa hơn. Trở về xa hơn thì trong khi đất Thăng Long mất đi nhiều công trình cổ, to lớn thì nó vẫn có thể tìm được ở ngoài, xa như Thái Bình, Nam Định vẫn giữ được hệ thống chùa lớn nhất và tháp từ thời Trần.
Thời xưa, các chính sử gia của triều đình phong kiến ít coi trọng kỹ thuật, phương thức lao động, nghệ thuật dân gian nên hầu như chúng ta chỉ có thể còn tìm thấy được văn bản một cách khái quát tinh thần và đời sống của dân gian nhờ vào những giáo sĩ và thương nhân Tây phương ghi chép lại trong thư tịch, nhật ký hành trình. Ấy là hoá thạch ngoại biên.
Văn hoá còn nước ta còn, vị trí địa lí có vai trò của nó trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, nhưng đó là vai trò rất thứ yếu. Hơn thế, thời đại hôm nay khó mà đóng khung một dân tộc nào đó trong vùng địa lí chật hẹp nào đó. Vấn đề là ở nội lực của nền văn hóa ấy, ý thức bảo tồn văn hóa dân tộc của cộng đồng ấy.
Văn hóa truyền thống gắn liền với ngôn ngữ dân tộc. Khi người Việt không còn biết ngôn ngữ của mình là khi nền văn hóa Việt đang thực sự đang bị lung lay và có nguy cơ bị diệt vong. Việc phục dựng bảo tồn phát huy vốn cổ, văn hoá truyền thống, kỹ nghệ dân gian của cha ông ở hải ngoại vừa là một hình thức biết ơn tiền nhân, vừa là bổn phận và trách nhiệm của mỗi kiều bào, trong khi các phương cách gìn giữ vốn cổ trong nước càng lúc càng khó khăn hơn do các nghệ nhân, những thế hệ giữ lửa lần lượt qua đời mà lớp trẻ kế tục thì không mấy quan tâm. Văn hóa các dân tộc thiểu số đang bị biến đổi, thậm chí có thể gọi là bị đồng hóa mạnh mẽ với văn hóa người Kinh đồng thời là quá trình văn hóa Việt chịu tác động mạnh bởi văn hóa ngoại lai xâm thực và đang bị đe doạ nghiêm trọng. Khi văn hóa nằm trong một chỉnh thể lớn hơn, gồm các thành tố khác như kinh tế, xã hội… thì nó có xu hướng bị lép vế. Với kiểu sống thực dụng như hiện nay, xu hướng phi văn hóa hóa (déculturalisation) là không thể cưỡng lại được và bất khả vãn hồi.
Năm thế kỉ trước, người Anh đã từng đau đầu về thế hệ trẻ du nhập ào ạt tiếng Pháp vào ngôn ngữ thường nhật lẫn sách báo. Vài chục năm nay, người Pháp lại đang báo động về hiện tượng Franglais (tiếng Pháp pha Anh). Tệ hại nhất là tiếp nhận một chiều. Việt Nam hiện nay gần như đang tiếp nhận một chiều văn hóa bên ngoài. Vấn đề không là ở mở hay đóng cửa, mà là ở tinh thần tiếp nhận và sự khôn ngoan chọn lọc, thâu thái và chế biến thành của riêng.
Nhìn rộng ra thế giới, dù La Mã là kẻ chiến thắng, nhưng chính La Mã bị văn hóa Hi Lạp thuyết phục. Ở Đông phương, trong giai đoạn lịch sử nhất định, Nhật Bản nhận sự “lan tỏa” từ văn hóa Trung Quốc, nhiều cái Nhật ko hề giấu diếm nguồn gốc Trung Quốc, học tập Trung Quốc nhưng phải qua tay người Nhật hoàn thiện mới được nâng lên đến mức nghệ thuật, được cả thế giới công nhận, sùng bài, lu mờ cả cái « giống Tàu » kia đi, đến nỗi Trung Quốc còn không dám nhận là của mình.
Văn hóa Champa một thời lẫy lừng, ở lĩnh vực và khía cạnh nào đó còn vượt trội Đại Việt. Quá trình lịch sử, người Kinh đã nhận rất nhiều từ nền văn hóa này, từ kiến trúc, điêu khắc cho đến âm nhạc dân tộc. Champa đã từng là một vương quốc độc lập, do vậy dân tộc Champa vốn không phải là dân tộc thiểu số. Văn hóa Champa đã chiếm vị trí trung tâm vì là nền văn hóa chính thống của đất nước Champa. Giờ đây, vương quốc Champa không còn nữa và văn hóa Champa nằm trong một chỉnh thể khác lớn hơn, chỉnh thể văn hóa Việt Nam. Hai nền văn hóa tiếp xúc với nhau, xung đột, giao thoa với nhau và dĩ nhiên sự tiếp biến văn hóa là không tránh khỏi. Văn hóa Champa có mai một là điều ít ai ngạc nhiên, đó là xu thế mang tính tất yếu. Nhưng tinh hoa văn hóa Champa vẫn có sức cuốn hút rất lớn đối với người Kinh và thậm chí ảnh hưởng tới văn hóa người Kinh.
Theo tác giả David Wyatt, trong cuốn “Thailand: A short history”, người Thái xuất xứ từ phía Nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỉ 7 đến thế kỉ 13. Trung tâm của họ khi đó là Mường Thanh (Điện Biên Phủ ngày nay). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở Đông Nam Á bây giờ như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Miến Điện và một số vùng ở Đông Bắc Ấn Độ.Ngày nay, về dân số tộc người Thái đứng vị trí thứ 3 và có mặt ở tất cả các tỉnh, thành trong nước Việt. Văn hóa Thái rất đặc sắc bởi các kiến trúc nhà ở, đền, chùa, cùng với nghi lễ tôn giáo, ẩm thực hay múa, hát. Nét nổi bật nhất trong văn hóa Thái là văn hóa phi vật thể với kho tàng văn hóa dân gian truyền thống, đã có rất nhiều dân tộc ít người hơn trong vùng chịu ảnh hưởng của văn hóa Thái.Văn hóa Thái Lan là một khái niệm bao hàm những niềm tin và các đặc trưng văn hóa bản địa trên vùng đất mà ngày nay được biết đến như là đất nước Thái Lan hiện đại. Văn hóa Thái cũng chịu ảnh hưởng văn hóa đến từ Ấn Độ, Trung Hoa, Khơ me và các nền văn hóa sơ sử của các quốc gia láng giềng Đông Nam Á khác. Ngoài ra nó còn chịu ảnh hưởng đến từ của Phật giáo, Ấn Độ giáo, vật linh giáo… và cả từ các nhóm dân di cư gần đây đến từ Trung Quốc và miền Nam Ấn Độ.
Nếu văn hóa mà chỉ bảo thủ ở nội địa thì nó sẽ vì sự đơn nhất, không có mâu thuẫn nội bộ, mất đi nguồn động lực, ngừng hoạt động biến hóa và bắt đầu xơ cứng, thoái hóa và tiêu vong. Bởi vì vùng ngoại biên là nơi tiếp giáp, giao tiếp của nhiều thế giới, các nền văn hóa khác nhau, các nhân tố khác nhau, cho nên đó là nơi sôi động nhất, phong phú nhất.
Quan niệm này nhất trí với thuật ngữ marginal – phần lề, biên so với phần chính) về mặt xã hội học lần đầu tiên được học giả Mĩ Robert Erza Part (1864 – 1944) nêu ra vào năm 1928 khi nghiên cứu nhưng người nhập cư ở các thành phố Mĩ. Sau đó thuật ngữ marginal có khi chỉ người ở vùng biên, có khi chỉ nhóm người từ bỏ truyền thống cũ của mình mà tiếp nhận hệ giá trị mới.
Về mặt văn hóa, khái niệm ngoại biên, chỉ bộ phận cộng sinh cùng văn hóa chính thống. Nó có cội nguồn sinh học. Khái niệm cộng sinh (symbiosis) do nhà thực vật học Đức đề xuát năm 1879 chỉ các loài sinh vật sống cùng nhau, bên cạnh nhau, cùng hưởng lợi của nhau. Nhà thực vật Đức Beechar năm 1942 nêu ra khái niệm “hiệu ứng ngoại biên” (edge effect) dùng làm căn cứ cho khái niệm văn hóa ngoại biên (marginal culture). Ông cho thấy hiệu ứng đó là tại các vùng giáp ranh giữa hai vùng địa mạo khác nhau, do quy luật cộng sinh mà các chủng loại sinh vật phát triển vô cùng đa dạng và mạnh mẽ. Đó là đặc trưng sinh thái của các vùng trung gian, quá độ. Từ đó khái niệm văn hóa ngoại biên chỉ vùng văn hóa đa nguyên, cộng sinh, tạp giao. Văn hóa hoạt động ở ngoại biên, rồi từ đó hình thành bản sắc, một bản sắc thay đổi theo thời gian. Hay theo như M. Bakhtin, không có đường biên, thì không có phát triển văn hóa, cũng không có bản sắc.
Muốn bảo tồn văn hóa dân tộc thì phải “trung tâm” [nhỏ] hóa nền văn hóa dân tộc. Trung tâm [nhỏ] hóa không phải đóng cửa, mà là mở một cách thông minh. Đó là chủ nghĩa dân tộc mở open nationalism – bắt chước cách nói của một lãnh đạo Hàn Quốc. Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng văn hóa thiểu số có thể đóng vai trò trung tâm. Thế kỷ 16, Pháp xâm chiếm Italia nhưng trào lưu phục hưng tại Pháp lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi phong trào Quattrocento của nước mình xâm lược. Khởi phát từ đó, Pháp đã trở thành trung tâm văn hóa Châu Âu vào thế kỷ 17, 18. Giải trung tâm, nghĩa là lập nên các trung tâm khác, dù nhỏ hơn nhưng phải khác. Chính khác biệt làm nên sự giàu sang của văn hóa loài người nói chung. Nói riêng, tinh thần phi tâm hóa hậu hiện đại là rất cần thiết cho Việt Nam ngày nay, nhiều “trung tâm” văn hóa nhỏ và khác biệt sẽ làm làm giàu sang văn hóa một đất nước, đồng thời tiếp tục cung cấp « nguyên liệu » cho trung tâm lớn hơn.
Dù muốn dù không văn hóa Việt Nam phải được đặt trong “cộng hòa văn hóa thế giới” bên cạnh các nền văn hóa khác của quốc tế. Trong “trường văn hóa” đó, văn hóa Việt Nam có ngoại vi hay không chỉ phụ thuộc vào cách nhìn. Chúng ta cần tránh hai thái cực: tự cho mình là trung tâm, là cái rốn văn hóa của thế giới hoặc tự ti, tự cho văn hóa của mình là văn hóa nhược tiểu. Hãy thôi việc tự cô lập mình trong tháp ngà dân tộc luận (ethnocentriste), như thế là tự hạn chế mình, tự triệt tiêu mình. Xã hội thay đổi thì văn hóa cũng phải thay đổi, tất nhiên khi thay đổi phải biết gạn đục khơi trong.
Giải pháp có tính đột phá là phải đào tạo nhân lực nòng cốt cho bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc, gắn bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc với phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn sinh sống ở hải ngoại; đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa phát triển văn hóa và kinh tế, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy và phát triển, tôi gọi đó là tinh thần nhập cuộc về hướng mở; đồng thời với quá trình này vấn đề tiếp tục giáo dục ý thức và lòng tự tôn dân tộc.
Khi ra nước ngoài, tiếp xúc với người bản địa, đôi khi ta phải đối diện với định kiến cho rằng người Việt kém cỏi, thiếu hiểu biết, thiếu văn minh, là dân “vùng sâu vùng xa”. Cái mặc cảm đó, không dễ gì có thể vượt qua. Sự khủng hoảng danh tính (crise identitaire) đó chỉ kết thúc khi mà ta tự trả lời một cách hãnh diện câu hỏi: “Tôi là ai?”. Muốn được như vậy, ta phải biết cách khẳng định các giá trị về trí tuệ và văn hóa của mình. Sau lưng là cả quá khứ văn hóa văn minh đáng nể, chúng ta có quyền kiêu hãnh vì điều đó, ta biết vậy, dù nhiều lúc đó chỉ là cái biết mơ hồ. Trong hội nhập và phát triển, sự giằng xé – có. Thậm chí rất mạnh. Người Việt mất nhiều rồi, nên rất sợ mất cái cuối cùng. Đó là nỗi mất văn hóa dân tộc, cụ thể nhất là tiếng nói và chữ viết. Cho nên không lạ, nếu cá nhân nào đó phản ứng quyết liệt, có khi đến quá quắt về những sai lạc từ lễ hội tự tạo hay về phim ảnh, sai lạc của sách báo về bản sắc văn hóa dân tộc mình.
Theo tôi văn hóa rất dễ bị tổn thương, trong đó bản sắc văn hóa, văn hóa truyền thống dễ bị tổn thương hơn cả, đặc biệt là văn hóa các dân tộc thiểu số (Trong lịch sử, người Ê Đê đã từng có cát cứ địa lý riêng, họ chiếm giữ cả một vùng rộng lớn thuộc lưu vực sông Nậm Mộ và Nặm Nơn, họ có vua và tồn tại như một quốc gia độc lập. Thế lực Ê Đê suy yếu rồi tan rã trong chiến tranh chinh phạt Bồn Man của Đại Việt. Sau khi Bồn Man thuộc về Đại Việt, những cuộc thiên di tìm đất sinh sống của người Thái, Mông, Khơ Mú từ Tây Bắc, Lào tràn sang. Những cuộc nội chiến để tranh giành đất sinh sống diễn ra triền miên. Dân số ít, thế lực yếu, người Ê Đê lại bị dồn vào nơi đầu suối, ngọn khe. Để tránh nguy cơ bị diệt vong, một bộ phận người Ê Đê phải bỏ tiếng nói, tên gọi, phong tục, tập quán của mình, sống đan xen, lệ thuộc vào người Thái, Khơ Mú). Giá trị văn hóa không phải là những giá trị cố định, vĩnh tồn, luôn hấp thu cái mới và đào thải cái lỗi thời, luôn mở cửa đón gió bốn phương, nhận cả gió chướng, luôn đào thải những yếu tố cũ, thậm chí những yếu tố tốt đẹp. Cá nhân tôi cho rằng ở trung tâm hay ở ngoại biên, không một cộng đồng văn hóa nào có thể dễ dàng bảo tồn bản sắc của mình. Bảo vệ được bản sắc của mình hay không là tùy thuộc vào khả năng đề kháng của từng cộng đồng văn hóa, tùy thuộc vào mức độ “rắn hóa” của các giá trị.
Xu hướng quốc tế tất yếu trong thời gian tới là các quốc gia sẽ ngày càng đề cao tính đặc thù, bản sắc văn hóa dân tộc, coi trọng việc giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hoá, chống khuynh hướng đồng hóa đồng thời chọn lọc tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hoá của nhân loại.
DÂN NHẠC
Việt Nam là một đất nước giàu sang vô cùng về văn hoá dân tộc thiểu số – bản địa, bên cạnh hàng ngàn bài dân ca, chúng ta có một nền dân nhạc rất sinh động về nội dung và rất độc đáo về âm sắc của các nhạc cụ dân tộc. Cũng như dân ca, dân nhạc của chúng ta bao gồm tất cả những bản nhạc của hơn 70 dân tộc cùng chung sống trên dải đất Việt Nam suốt 3 ngàn năm. Những bản nhạc này thường là nhạc thuần tuý, nhưng có một số bản nhạc căn bản là có lời ca, nhưng những người chơi nhạc chỉ dùng nhạc cụ để tấu phần âm nhạc của bài đó mà không hát lời ca theo.
Dân nhạc Việt Nam do nhân dân lao động sáng tạo nên. Những âm thanh, tiết tấu, nét nhạc, những đề tài của mỗi bài dân nhạc thường được bắt nguồn từ trong sinh hoạt lao động sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên, với xã hội, hoặc bắt nguồn từ trong tình yêu thiên nhiên, những ước mơ hạnh phúc của tuổi thanh niên. Dân nhạc Việt Nam đã có từ rất lâu, nó được truyền miệng từ rất nhiều đời này qua đời khác cơ bản là dùng tai lắng nghe để học lẫn nhau, chứ không có bài bản ghi chép theo kiểu « hồ xừ xang xê cống líu v.v. » hoặc theo nốt nhạc Tây « đồ rê mi v.v. »… như ngày nay, do đó, từ bài bản đến phong cách biểu diễn không mấy khi được thống nhất giữa địa phương này với địa phương khác. Người biểu diễn tuỳ tiện theo bớt, lèo lái, nhấn,vuốt thêm cho hay theo quan niệm thẩm mỹ, cá tính, phong cách riêng của mình.
Trong dân nhạc, mỗi bản nhạc được tấu lên bằng những nhạc cụ dân tộc đặc trưng mang nặng bản sắc Việt. Mỗi âm sắc độc đáo của nhạc cụ đều gợi cho người nghe những hình ảnh và cảm giác nhất định.
Tiếng sáo véo von của những em bé chăn trâu, chiều chiều vắt vẻo ngồi trên lưng trâu thổi lên, gợi cho chúng ta thấy một khung cảnh đồng áng phì nhiêu với những ruộng lúa xanh mướt, hứa hẹn một vụ mùa vượt mức, tiếng sáo làm cho ta thêm yêu quý làng bản đồng ruộng quê hương.Tiếng đàn bầu thánh thót trong đêm khuya cô tịch, âm thanh êm dịu óng chuốt, chứa đựng bao nỗi niềm tâm tư, bao ước mơ đẹp của lứa tuổi thanh niên. Âm sắc của đàn bầu có một sức « quyến rũ » lạ thường làm cho người nghe nếu đã ham thích tiếng đàn thì sẽ nhớ rất dai dẳng âm sắc của nó.Tiếng khèn nhịp nhàng phong phú về âm thanh của dân tộc Mông đã gợi lại cho người nghe cái khung cảnh sầm uất phù hoa của ngày hội mùa xuân với những chiếc ô muôn màu, những chiếc váy xoè rộng muôn sắc.Âm thanh trầm hùng của dàn chiêng các dân tộc Ê Đê, Ba Na, Gia Rai, Mường gợi lên cho chúng ta khung cảnh núi rừng hùng vĩ, những tiếng chiêng cao vút hoà tấu với chiêng cái trầm phác hoạ lại tiếng chim hót trên cành cây cao vút lẫn trong tiếng suối chảy rì rầm nơi chán núi, đáy rừng.Tiếng đàn môi của dân tộc Thái, Mường, Mông là tiếng lòng tâm sự của đôi lứa thanh niên thì thầm tìm hiểu nhau trong đêm khuya thanh vắng.Tiếng đàn Tơ-rưng, đàn tính, đàn đáy và hàng trăm thứ nhạc cụ khác nhau đã và đang gắn bó với dân tộc ta trải dài theo dòng lịch sử, mỗi nhạc cụ, mỗi âm sắc, mỗi bản nhạc đều gợi cho người nghe những khung cảnh non sông gấm vóc quen thuộc, những tình cảm chân chất, gần gũi với cuộc sống thường ngày của người dân lao động.
Hoàng A Chiêm